78 Độ Minh Triết – Lá Bài The Wheel of Fortune
Seventy Eight Degrees of Wisdom
Rachel Pollack
(Dịch: Pansy88)
CHƯƠNG V: QUAY VÀO BÊN TRONG
LÁ BÀI THE WHEEL OF FORTUNE
Lá Bài The Wheel of Fortune
Giống như một vài lá chính khác trong Tarot (đáng kể nhất là lá The Death), lá The Wheel of Fortune bắt nguồn từ một thuyết thời Trung cổ. Nhà thờ xem sự tự phụ là tội lỗi lớn nhất, vì khi tự phụ bạn đã đặt bản thân mình trên Chúa Giê-su. Có một bài học cảnh cáo tính tự cao mang quan niệm về một vị vua vĩ đại mất đi quyền lực. Trong nhiều phiên bản của huyền thoại về vua Arthur, nhà vua mơ hoặc nhìn thấy đứng trước ngài trong đêm trước trận chiến cuối cùng, hình ảnh một vị vua giàu có và hùng mạnh ngồi trên đỉnh một bánh xe. Bất thần nữ thần May Mắn (Fortuna) quay vòng bánh xe và nhà vua bị nghiến nát bên dưới. Tỉnh lại, Arthur nhận ra rằng quyền lực thế tục này dẫu có tích được bao nhiêu đi nữa thì số phận của chúng ta luôn luôn nằm trong tay Chúa Trời. Những lá bài Visconti (hình bên phải) chứa giáo lý thiết thực này.
Nay, ta có thể xem câu chuyện đạo đức súc tích này đã bị đặt xa khỏi những biểu tượng quyền lực và bí ẩn đang nhìn vào mình trong lá bài của Waite-Smith (hình bên trái), và trong phiên bản Oswald Wirth (hình ở giữa). Nhưng Fortuna và vòng quay tỏa sáng của bà có một lịch sử kỳ lạ. Đầu tiên, hình ảnh thời Trung Cổ có nguồn gốc từ một thời đại trước đó, khi Fortuna đại diện cho Nữ thần Vĩ đại, và vị vua bị nghiến nát là một sự kiện có thực. Mỗi năm, vào giữa mùa đông, những nữ tư tế hiến tế nhà vua, bằng cách mô phỏng cái chết của năm cũ họ hạ mình trước quyền năng của Nữ thần, và bằng cách chọn một nhà vua mới họ tinh tế gợi ý rằng bà có thể một lần nữa tạo nên mùa xuân từ mùa đông lạnh giá – một sự kiện hiển nhiên tất yếu đối với những người không tin vào “quy luật tự nhiên” như trọng lực chẳng hạn. Do đó, lá The Wheel gốc biểu trưng cho cả bí ẩn của tự nhiên lẫn khả năng con người tham gia vào những bí ẩn đó thông qua các nghi lễ hiến tế. Hãy chú ý rằng lá này đến ngay bên dưới lá The Empress, chính là tượng trưng cho Người mẹ Vĩ đại.
Đến thời Trung Cổ lá The Wheel đã mất đi ý nghĩa gốc của nó; điều này không có nghĩa là nó đã mất đi sức mạnh gợi đến những bí ẩn của cuộc sống. Trong phiên bản của Thomas Malory về câu chuyện của vua Arthur chúng ta thấy gợi ý rằng lá The Wheel biểu trưng cho những xoay chuyển ngẫu nhiên của “vận”. Tại sao người này thì giàu còn người kia thì nghèo? Tại sao một ông vua hùng mạnh lại mất đi vương vị và một ông vua vốn yếu ớt lại vươn lên đạt đến quyền lực? Ai, hay cái gì, đã điều khiển bánh xe cuộc sống? Malory gợi ý rằng vận, những hồi lên và xuống có vẻ như vô nghĩa, nằm trong số phận thực tại; nghĩa là vận mệnh Chúa đã chọn cho mỗi cá nhân, dựa trên những lý do mà chỉ Ngài mới hiểu. Vì chúng ta không thể hiểu những lý do kia, ta nói rằng những sự kiện trong đời một người phát sinh là nhờ may mắn, nhưng tất cả đều nằm trong kế hoạch của Chúa.
Do đó, với lá The Wheel, chúng ta đến với câu hỏi lớn rằng như thế nào và tại sao mọi việc lại xảy ra trong vũ trụ này. Cái gì khiến mặt trời mọc? Những nguyên tố cháy lên, phải, nhưng cái gì khiến chúng cháy? Làm cách nào năng lượng tự động lại tồn tại? Rốt cuộc thì tại sao mùa xuân lại theo sau mùa đông? Tại sao trọng lực hoạt động và hoạt động như thế nào? Đi xa hơn, ta nhận ra rằng số phận cũng là một ảo ảnh, một mánh khóe trùm lên sự thật rằng chúng ta, với tầm nhìn hạn hẹp của mình, không thể thấy sự kết nối bên trong giữa tất cả mọi thứ. “Ờ thì,” chúng ta nói, “số nó thế”, một phát biểu vô nghĩa bởi vì chúng ta không thể nào hiểu ra ý nghĩa. Mọi thứ không chỉ xảy ra, mà chúng được khiến cho phải xảy ra. Thứ quyền năng để tạo nên sự kiện, để cho vũ trụ một cuộc sống, một hình dáng và một mục đích, Malory nói với chúng ta rằng, thuộc về Chúa Thánh Linh (Holy Ghost), trú ngụ tại nhân gian như một hiện thân bên trong Chén Thánh (lá Ace of Cups) giống như cách Shekinah ngụ bên trong vùng thánh địa phủ màn của những điện thờ tại Jerusalem.
Sau đây, chúng ta đến với sự thật rằng cả những sự kiện ngẫu nhiên của cuộc sống lẫn cái gọi là “quy luật” của vũ trụ vật chất và những điều bí ẩn đều dẫn dắt chúng ta đến với một nhận thức về thế lực tinh thần được cánh tay nâng lên của The Magician truyền xuống và hiển thị trong thế giới tự nhiên của The Empress. Rất nhiều nhà thần bí và pháp sư đã nói rằng những ảo giác của họ cho họ thấy cách mọi vật kết nối với nhau, cách mọi thứ ăn khớp với nhau như thế nào, bởi tinh thần thống nhất cả vũ trụ này. Có lẽ tất cả chúng ta cũng có thể thấy và hiểu sự sắp xếp vĩ đại này của cuộc sống, nếu không vì chúng ta sống không đủ lâu. Cuộc đời ngắn ngủi làm tầm nhìn của chúng ta hạn hẹp đi thành một phần rất nhỏ của thế giới mà cuộc sống đối với nó có vẻ như là vô nghĩa.
Giờ đây, quan niệm xem lá The Wheel là một điều bí ẩn của số mệnh này, với những nghĩa ẩn của nó, rất khớp với phiên bản Waite-Smith hiện đại của lá bài, đặc biệt là khi chúng ta xem nó đã là một nửa đường đến lá chính cuối cùng. Nếu chúng ta đặt lá The Wheel của bộ Rider bên cạnh lá The World, chúng ta sẽ thấy ngay mối liên quan giữa chúng. Ở một lá ta có một bánh xe đầy những biểu tượng, ở một lá khác ta thấy một vòng chiến thắng, và bên trong là một người đang nhảy múa hiện thân cho toàn chân lý đằng sau những biểu tượng. Thậm chí ấn tượng hơn, ta thấy cũng bốn con thú ấy trong mỗi lá ở các góc, trừ việc các sinh vật thần thoại của lá 10 đã chuyển thành cái gì đó có thực và sống động hơn trong lá The World. Do đó, ở điểm giữa con đường, chúng ta nhận được một cái nhìn về ý nghĩa nội tại của cuộc sống; ở cuối con đường cái nhìn đó trở nên thực, hiện thân trong chính bản thể chúng ta.
Ở Ấn Độ, nhà vua cũng mất mạng mỗi năm cho Nữ thần. Khi những người Arya theo chế độ phụ hệ chấm dứt tập tục này thì hình ảnh bánh xe thời gian đã trở thành một biểu tượng mạnh mẽ hơn của một tôn giáo mới. Bánh xe luân hồi đã trở thành biểu tượng của luật nhân quả, dẫn bạn đầu thai vào hết thân xác này đến thân xác khác. Giờ đây, nghiệp, theo một cách nào đó, đơn giản là một giải thích khác cho những bí ẩn của số phận. Bằng những hành động bạn đã làm ở kiếp này, bạn dựng nên một định mệnh cho chính mình ở kiếp sau, thế nên nếu bạn phạm phải nhiều việc xấu xa thì bạn sẽ tạo nên trong bản ngã bất tử của mình một loại nhu cầu tâm linh về sự trừng phạt. Khi đến lúc đầu thai bạn không tránh được việc phải chọn một cơ thể ở đẳng cấp thấp hoặc bị tàn tật. (Cách giải thích đơn giản mang tính tâm lý cho nghiệp này có lẽ dựa trên Phật giáo nhiều hơn là Hindu giáo.)
Một lần nữa, những hiểu biết hạn chế của chúng ta ngăn ta trải nghiệm trực tiếp sự thật đằng sau Bánh xe Định Mệnh, hoặc nghiệp. Khi Phật Tổ đạt được giác ngộ, ngài nhớ lại từng khoảnh khắc của mỗi kiếp trước của mình. Chắc chắn, ký ức đó là sự giác ngộ. Bằng cách đạt được toàn bộ hiểu biết ngài có thể lĩnh hội được rằng tất cả những kiếp đó đều là những hình dáng tạo nên bởi những ham muốn của ngài. Khi ngài xả bỏ ham muốn là lúc ngài “thoát khỏi luân hồi”. Ta có thể nói rằng giác ngộ nghĩa là (hoặc bao gồm, theo một mức nào đó) xuyên qua những sự kiện bên ngoài để đến với tinh thần trú ngụ bên trong chúng, tức là, tìm ra Chúa Thánh Linh bên trong Bánh xe Định mệnh.
Nó là dấu hiệu cho thấy vua Arthur đã trải nghiệm The Wheel of Fortune qua hình ảnh trong mơ. Vì dù ta có xem nó là điểm giữa của bộ Ẩn chính hay đơn giản là những bước hoàn tất dòng thứ hai thì lá Wheel chắc hắn là một cái nhìn do vô thức mang đến cho chúng ta. The Hermit đã quay lưng với thế giới bên ngoài. Kết quả là vô thức cho ông thấy một cái nhìn về cuộc sống giống như một bánh xe quay đầy những biểu tượng.
Bánh xe Cuộc sống sẽ không thể nào thấy được cho đến khi ta bước ra khỏi nó. Khi ta ở trong nó ta chỉ thấy những sự kiện ngay trước và sau chúng ta, những lo toan thường ngày mà cái tôi của chúng ta cho là rất quan trọng. Khi ta rút mình đi ta có thể thấy toàn bộ mô hình. Về mặt tâm lý chúng ta có thể thấy cái nhìn này như một người đang đánh giá xem cuộc đời người ấy đã đi đến đâu và nó còn đi về đâu sau đó. Ở một mức độ sâu hơn, cái nhìn vẫn bí ẩn và mang tính hình tượng. Chúng ta có thể thấy những gì chúng ta đã làm với một kiếp đặc thù nào đó, nhưng số phận vẫn là một bí ẩn.
Tất cả những biểu tượng trên The Wheel đều có nghĩa; chúng giúp ta hiểu sự thật bên trong những nhìn nhận. Tuy nhiên, chúng ta không trải nghiệm toàn bộ thế lực sống. Ánh sáng vô thức vẫn còn bị che khuất đi.
Đó là dấu hiệu cho thấy Malory kết nối The Wheel of Fortune với Chén Thánh. Về các biểu tượng Chén Thánh, vốn cũng là những biểu tượng của bộ Ẩn phụ, có lẽ cũng đã lùi xa như những hiến tế vua chúa hằng năm. Khi một ứng viên gia nhập vào các hội kín châu Âu cổ được ban cho “tầm nhìn” về những bí mật nội tại của giáo phái, thì đó hầu hết đều giống với bốn biểu tượng tách, kiếm, giáo và đồng xu, những biểu tượng được cho anh ta thấy cùng với một nghi lễ thần bí. Và những công cụ cơ bản của nghi thức làm phép, đặt trên bàn của The Magician, cũng là bốn biểu tượng đó và là các bộ của bộ Ẩn phụ.
Mặc dù chúng ta không thấy trực tiếp bốn biểu tượng trên lá chính số 10, nhưng lại thấy hai trong số rất nhiều những biểu tượng tương đương với chúng. Bốn sinh vật trên các góc lá bài phát xuất từ một cảnh trong Ezekiel 1:10. Chúng cũng xuất hiện trong Khải Huyền 4:7. Giờ đây, trải qua hàng thế kỷ bốn hình ảnh này, đôi lúc được gọi là “các hộ vệ của thiên đường”, đã trở thành biểu tượng cho bốn nguyên tố cơ bản của khoa học cổ đại và Trung cổ. Từ góc bên tay phải ngược chiều kim đồng hồ là lửa, nước, khí và đất, và những nguyên tố này lần lượt thuộc về Wands, Cups, Swords và Pentacles. Bên cạnh việc đại diện cho các nguyên tố, bốn con thú cũng tượng trưng cho dấu hiệu của bốn cung hoàng đạo cố định – Sư Tử, Bò Cạp, Bảo Bình và Kim Ngưu. Tất nhiên, hoàng đạo là Bánh Xe Vĩ Đại của vũ trụ hữu hình. Do đó cả các nguyên tố lẫn các dấu hiệu đều biểu thị thế giới trần tục, một lần nữa được xem là một điều bí ẩn, và là thế giới chỉ có thể được thấu hiểu thực sự bằng cách học những sự thật bí mật.
Một liên hệ khác với bốn nguyên tố đến từ bốn ký tự tên của Chúa trên vành của Wheel. Bắt đầu từ góc trên bên tay phải, và một lần nữa lại được đọc ngược chiều kim đồng hồ, các ký tự đó là Yoh, Heh, Vav, Heh. Bởi vì cái tên này xuất hiện trong kinh Torah dưới dạng không có nguyên âm (tất cả bốn ký tự đều là phụ âm) nên không thể phát âm được; do đó tên “thật” của Chúa vẫn còn là bí mật. Ít nhất là hai nghìn năm, người Do Thái và người Cơ Đốc đã xem cái tên này có mang phép màu. Những nhà thần bí thiền bằng nó (Abulafia chạm tới sự xuất thần tầng Qabalah thứ ba bằng cách thiền với tên của Chúa) và những pháp sư sử dụng nó. Đối với những nhà Qabalah thì bốn ký tự này là biểu tượng cơ bản nhất của những điều bí ẩn của thế giới. Quá trình tạo nên vũ trụ được giữ để xảy ra ở bốn giai đoạn, tương ứng với bốn ký tự. Và tất nhiên, các ký tự cũng kết nối với bốn nguyên tố, với các biểu tượng Chén Thánh và bộ Ẩn phụ.
Các ký tự La Mã đặt rải rác giữa các ký tự Hebrew là một phép đảo chữ. Đọc theo chiều kim đồng hồ từ bên trên, chúng thành từ “TARO”; đọc ngược chiều kim đồng hồ chúng tạo thành “TORA” (hãy nhớ cuộn giấy của The High Priestess). Chúng ta cũng thấy các từ “ROTA”, tiếng Latin của từ “bánh xe”, “ORAT”, tiếng Latin của “nói” (speaks) và “ATOR”, một nữ thần Ai Cập (cũng đánh vần là “Hathor”). Paul Foster Case, học theo MacGregor Mathers, người sáng lập nên hội Bình Minh Vàng, đã lập nên câu “ROTA TARO ORAT TORA ATOR”. Câu này được dịch là, “Bánh xe Taro nói lên Luật của Ator” (The Wheel of Taro speaks the Law of Ator). Case gọi đây là “luật của ký tự”; khi Ator trở nên nổi tiếng nhất ở Ai Cập với tư cách là một nữ thần của cái chết, đó thực ra là “luật” của cuộc sống bất diệt, được giấu trong thế giới tự nhiên. Cho dù cơ thể có chết đi, linh hồn vẫn còn sống mãi. Case cũng chỉ ra rằng giá trị số Hebrew của các ký tự của từ “TARO” cộng lại bằng 691, và rằng tổng này, thêm vào 26, tức giá trị số của bốn ký tự tên Chúa [gọi là “Tứ tự” (Tetragrammaton)], sẽ thành 697. Những con số này có tổng là 22, con số các ký tự bảng chữ cái Hebrew và của các lá bài chính trong bộ Ẩn chính. Và tất nhiên 22 đưa chúng ta quay lại với 4.
Bốn biểu tượng trên nan hoa là của giả kim thuật. Từ bên trên đọc theo chiều kim đồng hồ, chúng là thủy ngân, lưu huỳnh, nước và muối, và dựa theo mục tiêu giả kim ở dòng hai, thì chúng tức là sự chuyển hóa. Nước là biểu tượng của hòa tan, tức là làm tan rã cái tôi để giải phóng bản ngã thực vốn bị chôn vùi trong những thói quen, nỗi sợ và phòng vệ. Chúng ta sẽ thấy điều này có nghĩa là gì khi xem xét lá The Death và Temperance.
Quan niệm về cái chết và sự tái sinh cũng được biểu trưng trong những sinh vật trang trí cho The Wheel. Con rắn thể hiện Set, một vị thần Ai Cập của những điều xấu xa, và là người mang đến cách chết cho vũ trụ theo truyền thuyết. Thần là người đã giết Orisis, vị thần sự sống. Có vẻ rằng truyền thuyết này, cũng như bản thân The Wheel, nảy sinh từ tập quán giết thần-vua thời sơ sử, đặc biệt là khi chúng ta xét rằng Set từng là một vị thần anh hùng, và rằng rắn linh thiêng đối với Nữ thần nhận hiến tế này. Con rắn theo The Wheel đi xuống; người đầu chó rừng đang đi lên là Anubis, người hướng dẫn những linh hồn người chết, và do đó là người ban sự sống mới. Nay, theo một vài truyền thuyết Anubis là con trai của Set, và vì thế chúng ta thấy chỉ có cái chết mới mang lại sự sống mới, và khi chúng ta sợ hãi cái chết, chúng ta chỉ thấy một phần chân lý. Về mặt tâm lý, chỉ có cái chết của bản ngã bên ngoài mới giải phóng được năng lượng sự sống bên trong.
Con nhân sư trên đỉnh của The Wheel đại diện cho Horus, con trai của Orisis, và là vị thần hồi sinh (vài thế kỷ sau thường được thay bằng Ator). Sự sống đã chiến thắng cái chết. Nhưng con nhân sư, như chúng ta đã thấy trong lá The Chariot, cũng biểu thị cho bí ẩn của cuộc sống. The Chariot kiểm soát cuộc sống với một cái tôi mạnh mẽ. Giờ đây con nhân sư đã ở trên The Wheel. Nếu chúng ta cho phép vô thức nói với mình thì sẽ cảm nhận một vài bí mật lớn của cuộc sống, quan trọng hơn cả vòng quay bất tận của những sự kiện vẻ như là vô nghĩa.
Set, con rắn, cũng được gọi là vị thần bóng tối. Một lần nữa, việc xem bóng tối là “xấu xa” chỉ là một ảo giác, và chắc chắn, nỗi sợ bóng tối, cũng như nỗi sợ cái chết, thuộc về cái tôi. Cái tôi yêu ánh sáng cũng như vô thức yêu bóng tối. Dưới ánh sáng mọi thức đều đơn giản và minh bạch; cái tôi có thể chiếm lấy chính nó với những ấn tượng cảm giác đến từ thế giới bên ngoài. Khi bóng tối đến, vô thức sẽ bắt đầu khuấy động. Đó là lý do vì sao trẻ em thấy quái vật khi đêm xuống. Một lý do để chúng ta khiến bản ngã bên ngoài thật mạnh mẽ là như vậy chúng ta sẽ không phải đối mặt với những thứ yêu ma mỗi khi ánh sáng tắt đi.
Tuy nhiên, những người ước có thể đi xa hơn The Chariot phải đối mặt với những thứ đáng sợ đó. Rắn và nước, bóng tối và sự tan ra đều là những biểu tượng của cái chết, tức là, cái chết của thể xác và cái chết của cái tôi. Nhưng sự sống tồn tại trước và sau tính cách cá nhân, thứ, tất nhiên, chỉ là một bong bóng trên mặt nước của bản ngã chúng ta. Cuộc sống rất mạnh mẽ, hỗn độn, trào dâng những luồng năng lượng. Giao phó cho cuộc sống và Horus, thần hồi sinh, thì sẽ mang đến một sự sống mới từ hỗn loạn. The Wheel xoay lên rồi lại xuống.
Phiên bản Wirth của lá The Wheel of Fortune thậm chí còn lộ quan điểm này một cách mạnh mẽ hơn. The Wheel nằm trên một con thuyền trên nước. Tan rã, hỗn độn, nổi lên như thực tại thiết yếu nằm bên dưới vũ trụ vật chất. Tất cả những dạng thức tồn tại, tính đa dạng vĩ đại của sự vật và sự kiện, đều đơn giản là những tạo tác ngắn ngủi từ năng lượng hùng mạnh lấp đầy vũ trụ kia. Trong thần thoại Hindu, Shiva cứ đến kỳ lại phá hủy toàn bộ vũ trụ, khi các dạng thức bên ngoài, như là cái tôi, đã trở nên kiệt quệ và cằn cỗi, bằng cách giải phóng năng lượng cơ bản mà từ đó vũ trụ khởi sinh.
Con số 10 gợi ý đến số 0. The Fool không là gì và không có tính cách. Nhưng The Fool, giống như số 0, cũng là vạn vật, bởi vì anh ta trực tiếp cảm thấy năng lượng sống, rằng biển cả đang cuộn dâng dưới lòng thuyền. Trên lá The Wheel of Fortune của bộ Rider, ở trung tâm của The Wheel không có biểu tượng nào. Khi chúng ta đén với trung tâm tĩnh tại của sự tồn tại, không có cái tôi hay sợ hãi, thì tất cả những dạng thức bên ngoài đều biến mất. Chúng ta có thể hiểu điều này bằng trực giác, nhưng để thực sự trải nghiệm nó, ta phải cho phép bản thân chìm vào lòng biển tối tăm, để cho cá tính chết đi, tan ra, và cho một sự sống mới sinh ra từ bóng tối.
Trong quẻ bài, lá The Wheel of Fortune biểu thị một vài thay đổi trong hoàn cảnh của một đời người. Người này có vẻ như không hiểu cái gì đã gây nên thay đổi này; có thể cũng không có lý do trực tiếp mà ai cũng có thể thấy, và thực tế là người này có vẻ không chịu trách nhiệm cho bất kỳ tình huống nào xảy đến. Một tập đoàn lớn mua công ty mà người này đang làm việc, thế là anh ta bị sa thải. Một chuyện tình chết yểu, không phải vì người ta đã phạm phải “lỗi” nào đó trong cách đối xử với nhau, mà đơn giản vì đời là thế. The Wheel vẫn xoay vòng.
Điều quan trọng về những đổi thay này là cách phản ứng. Chúng ta có chấp nhận hoàn cảnh mới và thích nghi với nó không? Chúng ta có dùng nó như một cơ hội và tìm thấy ý nghĩa và giá trị nào đó trong nó hay không? Nếu lá The Wheel xuất hiện theo chiều xuôi, nó có nghĩa là thích nghi. Trong cảm nhận mạnh nhất của nó, lá bài có thể cho thấy khả năng xuyên qua sự bí ẩn của các sự kiện để tìm thấy một sự thấu hiểu cuộc đời to lớn. Kết cuộc của một chuyện tình, cho dù có đau đớn đi nữa, cũng có thể mang đến một sự tự tri lớn hơn.
Đảo ngược lại, lá bài biểu thị một sự đấu tranh chống lại sự kiện, thường thất bại bởi thay đổi đã xảy ra và cuộc đời sẽ luôn luôn thắng những tính cách cố chống lại nó. Tuy nhiên, nếu người liên quan luôn phản ứng thụ động với bất cứ những gì cuộc đời làm với anh ta hoặc cô ta, thì lá The Wheel ngược có thể biểu thị một thay đổi quan trọng hơn nhiều so với chỉ đơn giản là một loạt tình huống mới. Nó có thể mở đường cho một nhận thức mới về trách nhiệm với chính cuộc đời của bạn.
.
Sách được dịch và chia sẻ bởi Pansy88. Khi trích dẫn bài dịch này qua nguồn khác xin vui lòng liên hệ qua email: pansy882004@gmail.com
Trả lời